Lịch sử Giáo_phận_Công_giáo_tại_Trung_Quốc

Vùng truyền giáo sơ khai

Cơ đốc giáo được truyền bá vào Trung Quốc từ thời Đường qua con đường tơ lụa. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời kỳ Trung Cổ kéo dài, cộng với sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáoNho giáo, mà Thiên Chúa giáo hầu như không thể phát triển ở Trung Quốc một thời gian dài. Mãi đến thế kỷ thứ 13, khi gót sắt chinh phục của Đế chế Mông Cổ lan đến châu Âu, trớ trêu thay lại là điều kiện để các nhà truyền giáo phát triển tại Trung Quốc, dưới sự bảo hộ của các Đại hãn Nguyên - Mông. Những hoạt động của các nhà truyền giáo thuộc Giáo hội Công giáo Rôma được ghi lại trong các tài liệu Trung Quốc vào thế kỷ 13. Đặc biệt với hành trạng của vị linh mục dòng Phanxicô người Ý là Giovanni da Montecorvino, người đã đến Khanbaliq, tức Đại Đô của nhà Nguyên (nay là Bắc Kinh) vào năm 1294, được yết kiến Nguyên Thành Tông. Năm 1299, ông đã cho xây dựng một nhà thờ và năm 1305 xây thêm một nhà thờ nữa ở đối diện với Hoàng cung. Sau khi nghiên cứu ngôn ngữ địa phương, ông bắt đầu dịch Tân Ước và Thánh Vịnh, ước tính đã cải đạo cho từ 6.000 đến 30.000 người vào những năm 1300. Năm 1307, Giáo hoàng Clêmentê V đã cho xác lập Tổng giáo phận Khanbaliq, một giáo phận lớn nhất trong lịch sử Công giáo, với phạm vi bao trùm hầu hết Đế chế Nguyên Mông. Giáo hoàng cũng phong Giovanni da Montecorvino lên bậc Tổng giám mục Tổng giáo phận Khanbaliq, kèm theo ngôi Thượng phụ hiệu tòa Viễn Đông. Bảy giám mục dòng Phanxicô cũng được cử đến Trung Quốc để hỗ trợ cho Montecorvino cai quản vùng truyền giáo rộng lớn này. Tuy nhiên, chỉ có ba người đến nơi vào năm 1308. Năm 1312, thêm 3 giám mục nữa đến từ Rome để hỗ trợ cho Montecorvino. Năm 1313, Giáo phận Thứ Đồng được thành lập, và đến năm 1320, Giáo phận Ili-baluc thành lập, đều tách ra từ Tổng giáo phận Khanbaliq. Tuy có những thành công bước đầu, số tín đồ chỉ trong thời gian ngắn đạt đến hơn 6 vạn người ở vùng Đại Đô,[1] nhưng do nhiều nhân tố, mà quan trọng nhất là sự suy tàn của nhà Nguyên, nhân tố bảo trợ cho sự phát triển của Cơ đốc giáo, dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của sứ mệnh truyền giáo.[2] Năm 1368, quân Minh công chiếm Đại Đô, đuổi người Mông Cổ lên mạc Bắc. Năm 1375, Tổng giáo phận Khanbaliq bị triệt tiêu.[3]

Nỗ lực lập lại vùng truyền giáo của dòng Tên

Cuối thể kỷ thứ XV, nổi lên các hạm đội thực dân của 2 cường quốc trên biển là Tây Ban NhaBồ Đào Nha. Đi theo những hạm đội thực dân, các nhà truyền giáo bắt đầu nối lại hoạt động hướng đến Trung Quốc. Đều là những quốc gia Công giáo kỳ cựu, cả Tây Ban Nha lẫn Bồ Đào Nha cạnh tranh nhau quyết liệt trong địa hạt kinh tế và khai thác thuộc địa, cũng như hoạt động truyền giáo. Các mâu thuẫn lớn đến mức, cả hai nước phải cùng xin Giáo hoàng làm trọng tài giải quyết. Do đó, Giáo hoàng Alexandre VI đã ban Sắc chỉ "Inter Caetera" ngày 4 tháng 5 năm 1493, phân chia theo hướng Đông Tây quả địa cầu cho hai vương quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, theo đó vùng đất bờ phía Tây Phi Châu và vùng Đông Ấn, bao quát từ Ấn Độ, Xiêm La, Malacca, Sumatra, Java, Đại Việt, Trung HoaNhật Bản, được đặt dưới chế độ bảo trợ của Bồ Đào Nha. Phần lại của thế giới mới được đặt dưới chế độ bảo trợ của Tây Ban Nha.

Về sau, để thuận lợi hơn trong vấn đề truyền giáo, ngày 3 tháng 11 năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III ban Sắc chỉ "Aequum Reputamus" thiết lập Giáo phận Goa khởi từ mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Nhật Bản. Ngày 4 tháng 2 năm 1557, Giáo hoàng Phaolô IV ký Sắc chỉ "Pro Exellenti Praeminentia" thiết lập Giáo phận Malacca, bao gồm lãnh thổ Indonesia, Malaysia, Xiêm, Cam Bốt, Chàm, Đại Việt, Trung HoaNhật Bản. Năm 1558, giáo sĩ Jorge da Santa Lucia, Dòng Đa Minh Bồ Đào Nha, được phong Giám mục tiên khởi Giáo phận Malacca.

Đến ngày 23 tháng 1 năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban Sắc chỉ "Super Specula Militantis Ecclesiae", thành lập Giáo phận Macau, tách ra từ Giáo phận Malacca, gồm lãnh thổ Trung Hoa, Đại ViệtNhật Bản.[4] Giám mục Didacus Nunnez Figueira, người Bồ Đào Nha, được đặt làm giám mục tiên khởi của giáo phận. Như vậy, Giáo phận Macau là giáo phận lâu đời nhất vẫn còn tồn tại trên lãnh thổ Trung Quốc.

Mặc dù Giáo phận Macau được Tòa Thánh phân cho các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, tuy nhiên hoạt động truyền giáo mạnh mẽ nhất lại ghi công cho các nhà truyền giáo dòng Tên người Tây Ban Nha. Mặc dù không thành công ở Nhật Bản, nhưng các giáo sĩ dòng Tên đã đạt được nhiều kết quả ở cả Trung HoaĐại Việt. Đặc biệt, với nỗ lực của Matteo Ricci, các giáo sĩ dòng Tên biết cách dung hợp với truyền thống Trung Hoa, cũng như thông qua các hoạt động giáo dục, truyền bá khoa học kỹ thuật, tạo được rất nhiều thiện cảm với Thanh đế Khang Hy, từ đó thuận lợi hơn trong việc truyền giáo.

Giáo phận Macau không lớn bằng Tổng giáo phận Khanbaliq trước kia, nhưng vùng lãnh thổ nó vẫn rất rộng lớn. Với nỗ lực của các giáo sĩ dòng Tên, các vùng truyền giáo nhanh chóng phát triền về số lượng. Vì vậy, trong những năm sau đó, giáo phận này liên tục được tách ra thành các vùng truyền giáo nhỏ hơn để thuận tiện cho việc thi hành mục vụ. Năm 1588, Giáo phận Funai (Phủ Nội) tách ra từ giáo phận Macau, tương ứng với vùng truyền giáo Nhật Bản ngày nay. Năm 1658, Hạt Đại diện Tông Tòa Nam Kinh được thành lập, tách ra từ giáo phận Macau. Một năm sau, 2 hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài cũng được tách ra từ giáo phận Macau, tương ứng với hầu hết Việt Nam ngày nay.

Năm 1674, Linh mục Grêgôriô La Văn Tảo được Giáo hoàng Innôcentê XI phong làm Giám mục hiệu tòa Basilinopolis, Đại diện Tông Tòa Nam Kinh, trở thành giám mục người Hoa tiên khởi. Ông cũng chính là Linh mục người Hoa tiên khởi khi chịu chức này vào năm 1656.

Năm 1690, Hạt Đại diện Tông Tòa Nam Kinh được tách thành 2 giáo phận là Giáo phận Nam Kinh và Giáo phận Bắc Kinh.

Năm 1696, hai hạt Đại diện Tông Tòa Sơn TâyThiểm Tây được tách ra từ Giáo phận Nam Kinh. Tuy nhiên, đến năm 1712, hai hạt này hợp nhất lại thành Hạt Đại diện Tông Tòa Thiểm Tây Sơn Tây.

Tuy nhiên, sự bảo thủ đến khắc nghiệt của giáo hội đối với sự khoáng đạt đối với truyền thống Trung Quốc của các giáo sĩ dòng Tên, vô hình trung gây ra tác động tiêu cực đối với nhà Thanh, dẫn đến các chỉ dụ cấm đạo gay gắt. Sự ưu ái của các hoàng đế nhà Thanh đối với Công giáo chấm dứt, những nỗ lực phát triển truyền giáo thích nghi với truyền thống Trung Hoa của các giáo sĩ dòng Tên cuối cùng đã đổ sông đổ bể. Hoạt động truyền giáo tại Trung Hoa từ đầu thế kỷ XVIII bị thu hẹp, chỉ còn là một phần rất nhỏ so với ánh hào quang do các giáo sĩ dòng Tên đã gầy dựng nên.

Công cuộc truyền giáo trong bối cảnh Liệt cường qua phân

Năm 1831
  • Hạt Đại diện Tông Tòa Triều Tiên tách ra từ Giáo phận Bắc Kinh, tương ứng với vùng bán đảo Triều Tiên ngày nay.
Năm 1838Năm 1839Năm 1841Năm 1848Năm 1856Năm 1874
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Hong Kong được nâng thành Hạt Đại diện Tông Tòa.
Năm 1875Năm 1885
  • Hạt Đại diện Tông Tòa Sơn Đông tách thành hạt Đại diện Tông Tòa Bắc Sơn Đông và Nam Sơn Đông.
Năm 1894Năm 1899Năm 1910

Công giáo trong thời đầu Cộng hòa

Năm 1912Năm 1914Năm 1915
  • Hạt Đại diện Tông Tòa Triều Châu được đổi thành Hạt Đại diện Tông Tòa Sán Đầu.
Năm 1920Năm 1921Năm 1924
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Giang Môn tách ra từ Hạt Đại diện Tông Tòa Sán Đầu.
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Lễ Huyện tách ra từ Hạt Đại diện Tông Tòa Trung Trực Lệ và Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Nam Trực Lệ.
  • Các hạt Đại diện Tông Tòa được đổi tên gồm: Việt Tây Hải Nam thành Bắc Hải, An Huy thành Vu Hồ, Trung Trực Lệ thành Bảo Định Phủ, Tây Nam Trực Lệ thành Chính Định Phủ, Duyên hải Trực Lệ thành Thiên Tân, Đông Trực Lệ thành Vĩnh Bình Phủ, Đông Nam Trực Lệ thành Hiến Huyện, Bắc Trực Lệ thành Bắc Kinh, Bắc Sơn Đông thành Tế Nam Phủ, Đông Sơn Đông thành Chi Phù.
Năm 1926Năm 1927
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Giang Môn được nâng thành Hạt Đại diện Tông Tòa.
  • Vùng truyền giáo Lâm Thanh tách ra từ Hạt Đại diện Tông Tòa Tế Nam Phủ.
Năm 1929Năm 1931Năm 1932
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Triệu Huyện được nâng thành Hạt Đại diện Tông Tòa.
  • Vùng truyền giáo Trương Điếm được nâng thành Hạt Phủ doãn Tông Tòa.
Năm 1933Năm 1935Năm 1936Năm 1937
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Truân Khê tách ra từ Hạt Đại diện Tông Tòa Vu Hồ.
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Trương Điếm được nâng thành Hạt Đại diện Tông Tòa Chu Thôn.
Năm 1939Năm 1940
  • Giáo phận Díli tách ra từ giáo phận Macau, tương ứng vùng các đảo quốc Đông Nam Á ngày nay.
Năm 1944
  • Hạt Phủ doãn Tông Tòa Thuận Đức Phủ được nâng thành Hạt Đại diện Tông Tòa.

Thành lập hàng Giáo phẩm Trung Quốc

Năm 1946
  • Các hạt Đại diện Tông Tòa được nâng thành Tổng giáo phận gồm An Khánh, Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu...
  • Các hạt Đại diện Tông Tòa được nâng thành Tổng giáo phận và đổi tên gồm: Tế Nam Phủ đổi thành Tế Nam...
  • Các hạt Đại diện Tông Tòa được nâng thành Giáo phận gồm An Quốc, Bắc Hải, Chu Thôn, Giang Môn, Hiến Huyện, Hong Kong, Sán Đầu, Thiên Tân, Thiều Châu, Triệu Huyện, Vĩnh Niên, Vu Hồ...
  • Các hạt Đại diện Tông Tòa được nâng thành Giáo phận và đổi tên gồm: Bảo Định Phủ thành Bảo Định, Chính Định Phủ thành Chính Định, Thuận Đức Phủ thành Thuận Đức, Vĩnh Bình Phủ thành Vĩnh Bình, Tuyên Hóa Phủ thành Tuyên Hóa, Chi Phù thành Yên Đài.
Năm 1947
  • Các hạt Phủ doãn Tông Tòa được nâng thành Giáo phận gồm Cảnh Huyện, Đại Danh...